Tỷ lệ diện tích chiếm giữ của hố bắn thép bề mặt (hố gai) trên tổng diện tích sau khi tăng cường bắn thép của máy phun bi được gọi là độ phủ bề mặt (độ nhám). Chỉ khi phôi đáp ứng các yêu cầu về độ bền nổ và độ che phủ bề mặt được chỉ định, nó mới có khả năng chống hư hỏng do mỏi và chống ăn mòn do ứng suất cao. Các bộ phận mài mòn bằng bắn thép thường yêu cầu độ che phủ bề mặt của chúng phải đạt và vượt quá 100%.
Các bước để thu thập dữ liệu về độ phủ bề mặt của phôi thép được bắn thép:
1) Đánh bóng mẫu thử chiều cao hồ quang bằng giấy nhám kim loại (nghiền cho đến khi có giấy nhám Na3).
2) Bắn nổ bề mặt đã được đánh bóng của mẫu thử theo các thông số quy trình nổ mìn thép được chỉ định.
3) Quan sát bề mặt phun nổ của mẫu thử dưới kính hiển vi kim loại 50X.
4) Đặt tờ giấy mờ lên mặt kính mờ của kính hiển vi và dùng bút chì vẽ đường viền của hố.
5) Dùng máy đo phẳng để đo diện tích hố chiếm (nếu hố chiếm diện tích lớn hơn thì việc đo diện tích nhẵn sẽ dễ dàng hơn).
6) Tính toán tỷ lệ che phủ hố móng theo công thức tính toán.
Vì phạm vi bắn được tính toán dựa trên dữ liệu đo của khu vực hố nên giá trị phạm vi bao phủ chính xác chỉ có thể đạt được khi có thể phân biệt hoàn toàn khu vực hố của phôi. Tuy nhiên, trong phép đo thực tế, giá trị đo chính xác có thể là 98% và sẽ không đáng tin cậy nếu vượt quá giá trị này, vì vậy 98% thường được sử dụng làm giá trị giới hạn của phép đo phạm vi bao phủ.
Kết quả thử nghiệm cho thấy khi tỷ lệ bao phủ của bắn thép đạt 30% thì độ bền mỏi của phôi tăng lên rõ rệt; khi độ bền mỏi tăng, độ bền mỏi tiếp tục tăng, nhưng sau khi vượt quá 80%, tốc độ tăng độ bền mỏi dần chậm lại.
Nếu tỷ lệ bao phủ yêu cầu đạt 98%, trong trường hợp khối lượng sản xuất lớn, cần cân nhắc rút ngắn thời gian tăng cường bắn càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, phải chỉ ra rằng để cải thiện hiệu suất mỏi và khả năng chống ăn mòn ứng suất của phôi, độ che phủ bề mặt của bộ phận thường phải đạt hoặc vượt quá 100%.